– Sau khi nghiên cứu bài viết của tác giả Phạm Văn Phương đăng ngày 20/11/2023, tôi cho rằng phải áp dụng tình tiết tái phạm, tái phạm nguy hiểm đối với Trần Văn T.
Hiện tại chưa có văn bản mới hướng dẫn cụ thể các quy định liên quan đến “Tái phạm hay tái phạm nguy hiểm” quy định tại Điều 53 BLHS 2015, tuy nhiên, có thể tham khảo hướng dẫn mới nhất tại Tiểu mục 2 – Điều 3 – Nghị quyết 03/2020, ngày 30/12/2020 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS trong xét xử tội phạm tham nhũng và tội phạm khác về chức vụ, có nêu nội dung liên quan trường hợp tái phạm và tái phạm nguy hiểm như sau: “Đã bị kết án về một trong các tội quy định tại Mục 1 Chương này chưa được xóa án tích mà còn vi phạm” quy định tại khoản 1 các điều 353, 354 và 355 của Bộ luật Hình sự là trước đó người phạm tội đã bị kết án trong 01 lần về một hoặc nhiều tội quy định tại Mục 1 Chương XXIII của Bộ luật Hình sự, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện một trong những hành vi được liệt kê tại khoản 1 của một trong các điều 353, 354 và 355 của Bộ luật Hình sự. Trường hợp ngoài tiền án nêu trên, người phạm tội còn có tiền án khác thì tiền án này được sử dụng để xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm, trừ trường hợp các tiền án đều đã được sử dụng để xác định dấu hiệu định tội trong các lần kết án trước đó.”
Như vậy, đối với các bị cáo có nhiều tiền án, cần xác định cụ thể tiền án nào sử dụng để làm tình tiết định tội, nếu đã sử dụng tiền án đó để định tội thì không sử dụng để xác định tình tiết tăng nặng, còn lại các tiền án khác chưa được sử dụng để định tội thì phải được sử dụng để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm. T bị xử phạt 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản vào ngày 20/7/2011, tuy nhiên đến ngày 27/2/2013, T lại bị xử phạt 15 tháng tù về tội Đánh bạc, tức là chưa đủ thời hạn để đương nhiên được xóa án tích đối với bản án ngày 20/7/2011. Đến ngày 09/9/2015, T bị xử phạt 42 tháng tù về tội Chống người thi hành công vụ, vào thời điểm này T cũng chưa đủ thời gian để đương nhiên được xóa án tích đối với 02 bản án ban đầu. Đến ngày 22/11/2019, T thực hiện hành vi trộm cắp tài sản có trị giá 1.500.000 đồng, thời điểm này T vẫn chưa được xóa án tích đối với cả 3 bản án trên. Tuy nhiên, lần này T trộm cắp tài sản có giá trị dưới 2.000.000 đồng nên phải áp dụng tình tiết “Đã bị kết án về tội này…., chưa được xóa án tích mà còn vi phạm” để định tội đối với T.
Cụ thể, vào ngày 20/7/2011, T đã bị kết án về tội Trộm cắp tài sản nhưng đến thời điểm T thực hiện hành vi trộm cắp chiếc xe đạp có giá trị 1.500.000 đồng, T vẫn chưa được xóa án tích nên mặc dù giá trị tài sản dưới 2.000.000 đồng, T vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản. Các bản án ngày 27/2/2013 và ngày 09/9/2015 chưa được sử dụng để làm tình tiết định tội nên được xem xét để xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm.
Theo điểm b khoản 2 Điều 53 BLHS năm 2015, trường hợp được coi là tái phạm nguy hiểm là “đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý”. Nếu các bản án ngày 27/2/2013 và ngày 09/9/2015 chưa áp dụng tình tiết tăng nặng tái phạm thì lần phạm tội ngày 22/11/2019, theo nguyên tắc áp dụng có lợi cho người phạm tội, T chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm b khoản 1 Điều 173 BLHS và bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” theo điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS. Nếu các bản án ngày 27/2/2013 và ngày 09/9/2015 đã áp dụng tình tiết tái phạm thì lần phạm tội ngày 22/11/2019, T phải bị truy cứu TNHS theo điểm g khoản 2 Điều 173 BLHS.
Trên đây là quan điểm của tôi, rất mong nhận được ý kiến trao đổi từ quý độc giả.